Tài Liệu Trùn Quế

Chúng tôi xin giới thiệu đến các bạn tài liệu tổng hợp về trùn quế, tài liệu gồm 3 phần: 
A. Trùn quế và các tác dụng của trùn quế.
B. Mô hình và kỹ thuật nuôi trùn quế.
C. Trùn quế trong mô hình chăn nuôi khép kín.

A. TRÙN QUẾ VÀ CÁC TÁC DỤNG CỦA TRÙN QUẾ.

I. TRÙN QUẾ VÀ ĐẶC TÍNH CỦA TRÙN QUẾ


Trùn quế có tên khoa học là Perionyx excavatus, chi Pheretima, họ Megascocidae (họ cự dẫn), ngành ruột khoan. Chúng thuộc nhóm trùn ăn phân, thường sống trong môi trường có nhiều chất hữu cơ đang phân hủy, trong tự nhiên ít tồn tại với phần thể lớn và không có khả năng cải tạo đất trực tiếp như một số loài trùn địa phương sống trong đất.
Trùn quế là một trong những giống trùn đã được thuần hóa, nhập nội và đưa vào nuôi công nghiệp với các quy mô vừa và nhỏ. Đây là loài trùn mắn đẻ, xuất hiện rải rác ở vùng nhiệt đới, dễ bắt bằng tay, vì vậy rất dễ thu hoạch.

1. Đặc tính sinh học

Trùn quế có kích thước tương đối nhỏ, độ dài vào khoảng 10 – 15 cm, thân hơi dẹt, bề ngang của con trưởng thành có thể đạt 0,1 – 0,2 cm, có màu từ đỏ đến màu mận chín (tùy theo tuổi), màu nhạt dần về phía bụng, hai đầu hơi nhọn. Cơ thể trùn có hình thon dài nối với nhau bởi nhiều đốt, trên mỗi đốt có một vành tơ.

Trùn quế nuốt thức ăn bằng môi ở lỗ miệng, lượng thức ăn mỗi ngày được nhiều nhà khoa học ghi nhận là tương đương với trọng lượng cơ thể của nó. Sau khi qua hệ thống tiêu hóa với nhiều vi sinh vật cộng sinh, chúng thải ra phân ra ngoài rất giàu dinh dưỡng, những vi sinh vật cộng sinh có ích trong hệ thống tiêu hóa này theo phân ra khỏi cơ thể nhưng vẫn còn hoạt động ở “màng dinh dưỡng” một thời gian dài. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho phân trùn có hàm lượng dinh dưỡng cao và có hiệu quả cải tạo đất tốt hơn dạng phân hữu cơ phân hủy bình thường trong tự nhiên.

2. Đặc tính sinh lý

Trùn quế rất nhạy cảm, chúng phản ứng mạnh với ánh sáng, nhiệt độ và biên độ nhiệt cao, độ mặn và điều kiện khô hạn. Nhiệt độ thích hợp nhất với Trùn quế nằm trong khoảng từ 20 – 30oC, ở nhiệt độ khoảng 30oC và độ ẩm thích hợp, chúng sinh trưởng và sinh sản rất nhanh. Ở nhiệt độ quá thấp, chúng sẽ ngừng hoạt động và có thể chết; hoặc khi nhiệt độ của luống nuôi lên quá cao cũng bỏ đi hoặc chết. Chúng có thể chết khi điều kiện khô và nhiều ánh sáng nhưng chúng lại có thể tồn tại trong môi trường nước có thổi Oxy.
Trùn quế quế rất thích sống trong môi trường ẩm ướt và có độ pH ổn định. Qua các thí nghiệm thực hiện, chúng tôi nhận thấy chúng thích hợp nhất vào khaỏng 7.0 – 7.5, nhưng chúng có khả năng chịu đựng được phổ pH khá rộng, từ 4 – 9, nếu pH quá thấp, chúng sẽ bỏ đi.

Trùn quế thích nghi với phổ thức ăn khá rộng, chúng ăn bất kỳ chất thải hữu cơ nào có thể phân hủy trong tự nhiên (rác đang phân hủy, phân gia súc, gia cầm…). Tuy nhiên, những thức ăn có hàm lượng dinh dưỡng cao sẽ hấp dẫn chúng hơn, giúp cho chúng sinh trưởng và sinh sản tốt hơn.
Trong tự nhiên, Trùn quế thích sống nơi ẩm thấp, gần cống rãnh, hoặc nơi có nhiều chất hữu cơ dễ phân hủy và thối rữa như trong các đống phân động vật, các đống rác hoai mục. chúng rất ít hiện diện trên các đồng ruộng canh tác dù nơi đây có nhiều chất thải hữu cơ, có lẽ vì tỷ lệ C/N của những chất thải này thường cao, không hấp dẫn và không đảm bảo điều kiệm ẩm độ thường xuyên.

3. Sự sinh sản và phát triển

Trùn quế sinh sản rất nhanh trong điều kiện khí hậu nhiệt đới tương đối ổn định và có độ ẩm cao như điều kiện của khu vực phía Nam. Theo nhiều tài liệu, từ một cặp ban đầu trong điều kiện sống thích hợp có thể tạo ra từ 1.000 –1.500 cá thể trong một năm.

Trùn quế là sinh vật lưỡng tính, chúng có đai và các lỗ sinh dục nằm ở phía đầu của cơ thể, có thể giao phối chéo với nhau để hình thành kén ở mỗi con, kén được hình thành ở đai sinh dục, trong mỗi kén mang từ 1 – 20 trứng, mỗi kén có thể nở từ 2 – 10 con.
Khi mới nở, con nhỏ như đầu kim có màu trắng, dài khoảng 2 – 3mm, sau 5 – 7 ngày cơ thể chúng sẽ chuyển dần sang màu đỏ và bắt đầu xuất hiện một vằn đỏ thẫm trên lưng. Khoảng từ 15 –30 ngày sau, chúng trưởng thành và bắt đầu xuất hiện đai sinh dục; từ lúc này chúng bắt đầu có khả năng bắt cặp và sinh sản.

II. TÁC DỤNG CỦA TRÙN QUẾ

Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy: Hiếm có loài động vật nào có giá trị hấp dẫn như con Trùn Quế. Trùn được sử dụng trực tiếp hoặc phối trộn để làm thức ăn cao cấp nuôi gia súc, gia cầm, thủy sản; thậm chí làm thực phẩm cho con người, dùng sản xuất mỹ phẩm, dược phẩm; Trùn phân hủy rác hữu cơ, bảo vệ môi trường; phân Trùn thải ra là một trong những loại phân hữu cơ thiên nhiên giàu dinh dưỡng nhất mà con người từng biêt.
Lợi ích to lớn của Trùn Quế thể hiện ở một số tác dụng chủ yếu sau đây:

1. Trùn là loài thức ăn giàu đạm, chất lượng cao để nuôi gia súc, gia cầm và thủy hải sản, đồng thời làm giảm chi phí thức ăn chăn nuôi

Với hàm lượng Protein thô chiếm 70% trọng lượng khô, hàm lượng đạm của Trùn tương đương với bột cá, thường được dùng trong thức ăn chăn nuôi. Trùn còn hội đủ 12 loại Axit Amin, nhiều loại Vitamin, chất khoáng cần thiết cho gia súc, gia cầm và thủy sản. Đặc biệt Trùn còn có các loại kích thích tố sinh trưởng tự nhiên mà trong bột cá không có. Thức ăn chăn nuôi có bột Trùn sẽ không có mùi tanh và khét của cá và dầu cá, hấp dẫn vật nuôi, lại bảo quản được lâu hơn thức ăn có dùng bột cá.

Theo W.T.Mason ( Đại học Phlorida – Mỹ): Trùn, nhất là Trùn tươi, là thức ăn lý tưởng để nuôi thủy sản, nhất là sản xuất con giống ba ba, rùa, lươn, tôm, cá Chình, đặc biệt là nuôi cá Tầm – Một loại cá quý để ăn và sản xuất món trứng cá muối đắt tiền. Nếu cho chúng ăn Trùn tươi hàng ngày bằng 10% - 15% trọng lượng cơ thể sẽ tốt hơn bất cứ loại thức ăn nào khác, tốc độ sinh trưởng sẽ tăng từ 15%-40%, năng suất trứng tăng lên 10%. Nếu trộn 2-3% bột Trùn dùng để nuôi, năng suất sẽ tăng trên 30%, giá thành thức ăn giảm 40%-60%, đồng thời tăng sức sinh sản và kháng bệnh của tôm, cá. Điều này rất có ý nghĩa khi thức ăn chăn nuôi đắt đỏ như hiện nay.
Hiệp hội nuôi gà của Mỹ cho rằng: Trùn là phương án hàng đầu cung cấp Protein chất lượng cao, rẻ nhất, dễ nhất cho vật nuôi, đặc biệt là gà. Thức ăn trộn 2-3% bột Trùn để nuôi lợn, tốc độ tăng trọng trên 74,2%; nếu nuôi gà, thì năng suất trứng tăng 17-25%, tốc độ sinh trưởng tăng 56% -100%. Đặc biệt, nếu nuôi gà bằng thức ăn có Trùn tươi thì hầu như gà không bị bệnh; trong khi nếu nuôi bằng thức ăn không có Trùn, tỷ lệ mắc bệnh cúm gà 16-40%. Trùn Quế còn chứa trên 8% Axit Glutamic ( còn gọi là bột ngọt, hay mì chính), nên khi sử dụng làm thức ăn chăn nuôi thì vật nuôi khỏe, chóng lớn, đẻ khỏe, ít bệnh tật và sẽ cho thịt thơm ngon hơn hẳn so với vật nuôi thông thường. Vì vậy ngày càng có nhiều hãng sản xuất thức ăn công nghiệp quan tâm đưa bột Trùn trộn vào thức ăn chăn nuôi để tạo sự khác biệt so với thức ăn thông thường, nâng cao khả năng cạnh tranh sản phẩm trên thị trường.

2. Phân Trùn làm thức ăn cho gia súc, gia cầm, thủy sản và là một loại phân hữu cơ thiên nhiên giàu dinh dưỡng nhất mà con người từng biết đến

Thức ăn chủ yếu của Trùn là phân trâu bò, ngựa, dê, cừu, thỏ, lợn, gà; phế thải, rau của quả, cây thân thảo và các loại rác hữu cơ hoai mục…; sau khi được Trùn tiêu hóa sẽ trở thành phân Trùn, có chứa một số  Axit Amin như: Tyrosin, Arginin, Cystin, Methiomin, Histidin… thì phân Trùn có thể làm thức ăn chăn nuôi cho gia súc, gia cầm, thủy sản.
Phân Trùn chứa một hỗn hợp vi sinh có hoạt tính cao, dễ hòa tan trong nước, chứa hơn 50% chất mùn. Do đó phân Trùn không chỉ kích thích tăng trưởng cây trồng, mà còn tăng khả năng cải tạo đất. Phân Trùn còn chứa các khoáng chất được cây trồng hấp thụ một cách trực tiếp, không như các loại phân hữu cơ khác phải được phân hủy trong đất trước khi cây hấp thụ. Hàm lượng N-P-K, Ca và các chất khoáng vi lượng trong phân Trùn, cao gấp 2-3 lần phân trâu bò, phân ngựa; gấp 1,5-2 lần phân lợn và phân dê. Hơn nữa, phân Trùn không có mùi hôi thối như các loại phân gia súc, gia cầm, lại có thể để lưu giữ lâu ngày trong túi nilon mà không sợ bị mốc, rất thuận lợi cho việc bảo quản và vận chuyển. Phân Trùn làm giảm lượn Axit Carbon trong đất và gia tăng nồng độ Nitơ ở trạng thái cây trồng có thể hấp thụ được. Chất Axit Humic ở trong phân Trùn có thể giúp cây trồng dễ dàng hấp thụ nhiều hơn bất kỳ chất dinh dưỡng nào khác. Chất IAA (Indol Acetic Aicd) có trong phân Trùn là một trong những chất kích thích hữu hiệu, giúp cây trồng tăng trưởng tốt.

Phân Trùn có thể giúp chống sự xói mòn và tăng khả năng giữ nước trong đất. Cây trồng khi bón phân Trùn sẽ không bị “cháy”, khống chế được các kim loại nặng xâm nhập cây gây đột biến làm phát sinh tế bào lại có hại, gây hoại tử rễ… Chất mùn trong phân Trùn loại trừ được những độc tố, nấm, và vi khuẩn có hại trong đất có thể ngăn ngừa các bệnh về rễ và đẩy lùi nhiều bệnh của cây trồng. Phân Trùn có tác dụng điều hòa môi trường đất rất tốt, giúp cây phát triển ngay cả khi nồng độ pH trong đất quá cao hoặc thấp. Việc nuôi Trùn Quế lấy phân, chính là việc áp dụng công nghệ xử lý rác thải hữu cơ bằng con Trùn Quế., một trong những công nghệ rẻ tiền nhất.
Hiện tại phân Trùn Quế thường được sử dung cho các mục đích như: Kích thích sự nẩy mầm và phát triển của cây trồng; Điều hòa dinh dưỡng cải tạo đất, làm cho đất màu mỡ và tơi xốp; Dùng làm phân bón lót cho cây rau quả, tạo ra sản phẩm có chất lượng và năng suất cao; Dùng làm phân bón lá hảo hạng và kiểm soát sâu bọ hại cây trồng. Vì vậy, phân Trùn là loại phân sạch thiên nhiên quý giá để bón cho hoa, cây cảnh, rau quả trong nông nghiệp sạch, được thị trường rất ưa chuộng.
* Cách thức sử dụng phân Trùn
Cho vườn ươm: Dùng 30% phân Trùn trộn với cát. Đây là hỗn hợp nẩy mầm tốt nhất. Nó đảm bảo cho cây phát triển không ngừng và sinh trưởng tốt trong thời gian 3 tháng, không cần phải thêm bất cứ phân bón nào khác.
Dùng làm chất điều hòa cải tạo đất: Cuốc một lớp đất cằn lên, cho một lớp phân Trùn vào và tưới nước. Sự phát triển của cây trồng sẽ được thấy rõ trong mùa vụ.
Cho cây trồng: Có thể sử dụng phân Trùn như một loại phân bón lót hoặc bón thúc cho cây trồng. Khi sử dụng phân Trùn, có thể giảm dần lượng phân hoá học.
 *Liều lượng sử dụng
Cây cảnh: Tùy theo nhu cầu của cây.
Rau: Bón lót: 100- 150kg/1000m2.  
Cây ăn trái: Bón 2- 4kg/cây. Số lần bón tùy thuộc vào tuổi của cây.

3. Trùn làm thuốc chữa nhiều loại bệnh cho con người

Y học cổ truyển của nhiều nước, trong đó có Việt Nam, đã dùng Trùn đất để chữa các bệnh về huyết áp, tim mạch, thần kinh, kháng ung thư, hen suyễn, sốt rét, thấp khớp, đậu mùa, thương hàn, gẫy tay chân v..v… Loại axit amin Tyrosin trong Trùn có thể tăng tuần hoàn máu ngoại vi của bề mặt cơ thể, tăng tản nhiệt, có tác dụng giải nhiệt, hạ sốt. Dịch ngâm nước của Trùn có tác dụng làm làm tê tri giác (giảm đau). Dung dịch cồn của Trùn, có tác dụng giảm huyết áp từ từ và giữ được lâu bền, sử dụng rất tốt cho người cao huyết áp. Rượu thuốc Lumbrokinase làm từ Trùn đất đã thanh trùng, ngâm rượu, đến khi có màu nâu đậm, đem ra sử dụng sẽ giúp ngăn ngừa tai biến mạch máu não, xơ vữa động mạch và mỡ máu ở người cao tuổi. 
Trong cơ thể Trùn có chất xúc tác, có tác dụng co bóp cửa tử cung, trợ giúp sản phụ dễ dàng khi đẻ. Thành phần đạm trong chiết suất của Trùn, có tác dụng giãn nở khí quản, trị bệnh hen xuyễn. nhờ việc chứa các hàng lượng rất cao của axit Linoleic, cùng khoáng chất vi lượng đặc hiệu chống oxi hóa là Se, giúp Trùn tăng năng lực sát khuẩn, tăng cường miễn dịch, nâng cao sức đề kháng trong cơ thể, nên tăng được khả năng chống ung thư, giảm hội chứng thiểu năng trí tuệ (bệnh đao) ở trẻ em; ổn định sự hoạt động của cơ tim nên phòng được các bệnh bất thường về tim, ngăn ngừa viêm gan, loét dạ dày, viêm đường ruột, thấp khớp, viêm họng, tiểu đường, yếu về sinh lý. Hàm lượng Zn có trong Trùn giúp điều trị đối với những trẻ em biến an, tóc thưa, chậm lớn, ngăn ngừa sự phát triển không bình thường về tri giác và thính giác trẻ em. Ngoài ra nó còn điều trị suy nhược thần kinh toàn diện, trí nhớ kém, ngủ kém, khứu giác bất thường.

Trong các tác dụng chữa bệnh của Trùn đất thì tác dụng cấp cứu những trường hợp đột quỵ do tai biến mạch máu não là được quan tâm nhiều nhất. Ở Việt Nam, toa thuốc và tên bài thuốc sử dụng Trùn đất chữa tai biến mạch máu não đã xuất hiện từ những năm đầu thế kỷ XX, được in lại trong cuốn sách “Hai trăm bài thuốc quý” của ông Lê Văn Tình vào năm 1940. Bài thuốc cũng đã được bác sĩ Nguyễn Văn Hưởng, nguyên Bộ trưởng Bộ Y tế, cho phổ biến để sử dụng hữu hiệu trong đợt chống dịch sốt xuất huyết tại các tỉnh miền Bắc vào năm 1969. Cho đến nay, bài thuốc đơn giàn này đã cứu chữa và phục hổi cho rất nhiều trường hợp hôn mê do đột quỵ, dù đã nhiều ngày trôi qua.
Mới đây, PGS – TS Nguyễn Thị Ngọc Dao cũng các cộng sự thuộc Viện Công nghệ Sinh học (Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam) đã bước đầu nghiên cứu và sản xuất thành công chế phẩm viên nang Lumbrokinase từ Trùn đất, có tác dụng làm tan cục máu đông làm nghẽn động mạch, những vết thương bị tụ máu. Việc điều trị cho các bệnh nhân bị tai biến mạch máu não do viêm tắc, xơ vữa động mạch đã cho kết quả tốt. Mặc dù chưa bán ngoài thị trường, nhưng thuốc chữa xơ vữa động mạch từ Trùn Quế dự kiến rẻ hơn thuốc ngoại nhiều lần và kết quả thử nghiệm cho thấy bột Trùn không gây tác dụng phụ nào. Việc nghiên cứu các chế phẩm Trùn để chữa bệnh và làm thực phẩm bổ dưỡng vẫn cần tiếp tục được tiến hành…

4. Trùn làm thực phẩm cho người và sản xuất mỹ phẩm

Trùn có hàm lượng Protein cao, giàu nguyên tố vi lượng tương tự thịt thỏ – là loại thịt giàu đạm, ít chất béo. Trong Trùn có tới 8 loại Axit Amin cần thiết cho con người. Hàm lượng Vitamin B1, B2 trong Trùn gấp 10 lần khô đậu tương, 14 lần bột cá, cùng sự phong phú về Vitamin A, E, C và các vi lượng khoáng chất có lợi cho sức khỏe dinh dưỡng của con người. Vì vậy nhiều nước đã sử dụng Trùn để chế biến thành thực phẩm cho con người. Ở Nhật, có tới 200 loại thực phẩm được chế biến từ Trùn. Ở Italya Trùn được chế biến patê. Ở Đài Loan có hơn 200 món ăn làm từ Trùn. Ở Australia người ta ăn Trùn với món ốp lếp. Hiện nay, đã có đồ hộp thực phẩm làm bằng Trùn và bánh bích quy bán ra thị trường. Nhiều nhà dinh dưỡng học trên thế giới dự đoán: Trùn – loại động vật dinh dưỡng, dễ nuôi, trong tương lai sẽ trở thành nguồn quan trong về thực phẩm động vật bình dân, phổ biến và quá giá của loài người.
Chả Trùn Quế
Trùn cũng cung cấp nguyên vật liệu thô tốt nhất cho công nghiệp. Một số Enzyme và hoạt chất được chiết xuất từ Trùn để làn thuốc, thức ăn, mỹ phẩm. Hiện Trùn đang được quan tâm nghiên cứu sử dụng trong sản xuất mỹ phẩm.

 5. Trùn góp phần bảo vệ môi trường và phát triển nông nghiệp sinh thái

Trùn có sức tiêu hóa lớn. Tác dụng phân giải hữu cơ của Trùn chi đứng sau các vi sinh vật, Một tấn Trùn có thể tiêu hủy đượ 70 – 80 tấn rác hữu cơ, hoặc 50 tấn phân gia súc trong một quý. Các nước trên thế giới đã tận dụng cơ năng đặc thù này của Trùn để xử lý chất thải sinh hoạt hoặc rác thải hữu cơ, làm sạch môi trường, có hiệu quả tốt. Một công ty ở California (Mỹ) đã nuôi 500 triệu Trùn, hàng ngày xử lý khoảng 2.000 tấn rác. ở Nhật, những nhà máy hằng năm sản xuất được 10.000 tấn giấy, với 45.000 tấn phế thải, đã sử dụng Trùn để xử lý chất thải, đồng thời sản xuất được 2.000 tấn Trùn khô, 15.000 tấn phân Trùn.
Trùn Quế Bảo Vệ Môi Trường
Trùn sống trong đất sẽ làm tăng độ phì nhiêu của đất. Phân Trùn góp phần làm giảm mức sử dụng phân hóa học, giúp cây trồng phát triển tốt, tăng khả năng chống sâu bệnh, giảm bớt việc sử dụng thuốc trừ sâu, nhờ đó bảo vệ được môi trường. Với những khu vực ô nhiễm, nếu nuôi Trùn cũng làm sạch được môi trường nước. Hơn nữa, Trùn đất có thể xử lý chất thải hữu cơ, phân gà, phân lợn, phân bò và chuyển hóa phân bón hữu cơ có chất lượng cao, và bằng cách đó cải thiện môi trường sinh thái các vùng nông thôn. Thậm chí, phân của Trùn cũng có thể xử lý nước thải. Nuôi Trùn trong gia đình, vừa xử lý được rác thải, vừa có phân Trùn bón cho hoa, cây cảnh. Một số nước đã làm các khay nuôi Trùn đặt tại bếp ăn của các gia đình, thậm chí cả ở các khách sạn năm sao.

6. Những tác dụng khác của Trùn

Trùn là một sinh vật chỉ thị về môi trường thổ nhưỡng, Dùng kính hiển vị điện tử quan sát tình trạng sưng tấy, nổi u của Trùn: Các tế bào thượng bì của niêm mạc đường ruột co lại hoặc bị lở loét xuất huyết… Có thể đánh giá được mức độ ô nhiễm kim loại nặng và hóa chất độc hại của môi trường vùng đất mà Trùn sống. Trùn sống trong đất, nhưng da rất ít dính đất. Hỗn hợp dịch thể mà Trùn tiết ra, cũng phương thức vận động của Trùn, đang được nghiên cứu phỏng sinh học về công nhệ không bám đất hoặc ít bám đất trong tác nghiệp cơ giới. Trùn là một trong những loại mội câu rất hấp dẫn đối với cá, Với 20% dân số có sở thích đi câu ở Nhật, đã cần mỗi năm đến 300 tấn Trùn, Ở Trung Quốc, hằng năm cùng tiêu tốn trên 1000 tấn Trùn để làm mồi câu, Trùn còn được sử dụng làm học cụ trong nhà trường, có thể tiến hành vào bất cứ thời điểm nào, vừa rẻ tiền, thao tác dễ dàng, mà việc thu nhập bảo quả tiêu bẩn lại an toàn cho thầy giáo và học sinh.
Trùn quế dùng để câu cá

III.  HIỆU QUẢ KINH TẾ VÀ TRIỂN VỌNG VỮNG CHẮC CỦA NGHÊ NUÔI VÀ CHẾ BIẾN TRÙN QUẾ

1. Hiệu quả kinh tế của việc nuôi Trùn Quế

 Nuôi Trùn quế có ưu điểm là:
Vốn đầu tư nuôi Trùn cần rất ít (Nuôi để dùng trong chăn nuôi gia đình chỉ cần vài trăm ngàn đến vài triệu đồng; Nuôi Trùn hàng hóa cần vài ba triệu đồng, đến vài chục triệu đồng)
Chi phí đầu tư nuôi Trùn không lớn. Mặt bằng nuôi Trùn có thể tận dụng trong vườn nhà hoặc các bãi nuôi công nghiệp, các chuồng trại cũ bỏ không; Hoặc làm các lều tán, nhà tạm có mái che; sử dụng các vật dụng đơn giản như chum, chậu, khay gỗ, thùng xốp v..v…Thức ăn để nuôi Trùn chủ yếu sử dụng nguồn nguyên liệu sẵn có như rác hữu cơ (rau, củ, hoa quả, vỏ trái cây loại bỏ, rơm rạ, các loại bã đã ép dầu…), phân trâu, bò, dê, lợn, gà… rất dồi dào và rẻ tiền. Nuôi Trùn ít bị bệnh, ít rủi ro, tốn ít công chăm sóc, kỹ thuật đơn giản, dễ làm, sớm có thu nhập. Nếu sản xuất hàng hóa để bán thì có lợi nhuân đáng kể, mang lại giá trị cao.

Trùn sinh sản rất nhanh, nên chỉ cần đầu tư con giống một lần đầu tiên. Từ 1 kg Trùn giống, sau 60 ngày nuôi có thể thu được 2 đến 3 kg Trùn. Nếu thả giống với mật độ 3 – 4 kg/ m2, sẽ cho thu hoạch 6 – 10 kg/ m2 – lần, mỗi năm có thể thu hoạch 6 – 7 lần.
Trùn và phân Trùn với nhiều tác dụng như: Là nguồn thức ăn chăn nuôi chất lượng cao và nhiều công dụng cho nhiều loại gia súc, gia cầm thủy sản; Là nguồn phân hữu cơ sạch và quý đối với cây trồng (nhất là hoa và cây cảnh…); Trùn còn là nguồn nguyên liệu để sản xuất và chế biến thực phẩm, thực phẩn chức năng, dược phẩm, mỹ phẩm… với nhu cầu rất lớn cả với thị trường trong nước và xuất khẩu. Chính vì vậy, đầu ra cho việc nuôi Trùn hàng hóa là vô cùng thuận lợi.

2. Triển vọng vững trắc của nghề nuôi và chế biến Trùn quế:

Nghề nuôi Trùn (Trùn đất, Trùn Quế…) đã hình thành từ hằng trăm năm nay. Do lợi ích của Trùn đất nên nhiều nước đã quan tâm nuôi và sử dụng Trùn, chọn lọc và lai tạo một số giống Trùn có năng suất và chất lượng cao, chủ yếu là Trùn Quế. Mỹ đã có lịch sử nuôi và sử dụng Trùn từ 80 năm nay. Năm 1980, ở Mỹ đã có hơn 90.000 trang trại nuôi Trùn, Ở Manila (Philipin) có hơn 50.000 hộ nuôi Trùn. Trung Quốc bắt đầu nuôi Trùn từ cuối thập kỷ 70.
Ở Việt Nam, việc nuôi Trùn và sử dụng Trùn có từ những năm 80. Một số cơ quan đã tiến hành nghiên cứu và triển khai việc nuôi Trùn đất để tạo nguồn đạm động vật cho chăn nuôi gia súc, gia cầm như gà, vịt, lợn, tôm, baba, cá, lươn, ếch… Ngoài ra, nuôi Trùn còn tại nguồn phân hữu cơ sạch cho cây trồng và góp phần làm sạch môi trường.
Nuôi Trùn quế tuy là một nghề mới phát triển nhưng rất hữu ích và phù hợp với điều kiện mọi gia đình. Người nông dân nuôi Trùn để sử dụng làm thức ăn chăn nuôi gia súc, gia cầm, thuỷ sản đạt hiệu quả kinh tế cao và cũng có thể sử dụng Trùn để tự chế biến thành các thức ăn giàu đạm ngay trong gia đình, góp phần chống suy dinh dưỡng. Trùn và phân Trùn có thể cung cấp cho thị trường trong nước và xuất khẩu để sản xuất thức ăn chăn nuôi, chế biến thực phẩm, dược mĩ phẩm, làm phân bón…với nhu cầu lớn và ổn định. Vì vậy Việc ứng dụng thành công mô hình nuôi Trùn sẽ giúp người nông dân có thêm biện pháp tạo nguồn thức ăn mới cho chăn nuôi, tiết kiệm chi phí, tăng hiệu quả kinh tế, bảo đảm cho người dùng sản phẩm chăn nuôi.

Nghề nuôi Trùn sẽ là 1 nghề góp phần thiết thực để xoá đói giảm nghèo ở nông thôn, kể cả vùng sâu vùng xa. Thực tế trong vài năm gần đây, một số người nuôi Trùn trong TP Hồ Chí Minh và các thành phố khác đã trở thành tỷ phú.
Rất tiếc, nhiều bà con nông dân chưa được biết hoặc chưa thấy rõ cơ hội làm giàu này nên việc nuôi Trùn chưa thành phong trào phổ biến! Khi phong trào nuôi Trùn và sử dụng Trùn cùng với các loại hình sản xuất nông nghiệp sinh thái hữu cơ bền vững, khép kín với quy mô công nghiệp trở thành phổ biến- thì nông nghiệp nông thôn Việt Nam chắc chắn sẽ có sự phát triển đột biến; nông dân sẽ không còn nghèo khó như bao đời nay!
Nhận thức được giá trị to lớn của Trùn quế, Bộ Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn, đài truyền hình Việt Nam cùng trung tâm khuyến nông quốc gia và các trung tâm khuyến nông ở các tỉnh thành đang đẩy mạnh việc vận động nuôi Trùn quế. Nguyên phó thủ tướng Nguyễn Công Tạn, giáo sư Nguyễn Lân Hùng cũng là những người tích cực vận động phong trào này nhất là trong lĩch vực công nghiệp và y tế.

B. MÔ HÌNH VÀ KĨ THUẬT NUÔI TRÙN QUẾ

I. CÁC MÔ HÌNH NUÔI TRÙN QUẾ

Hiện nay, trên thế giới có nhiều mô hình nuôi Trùn quế: từ đơn giản như nuôi trong khay, chậu trên một diện tích nhỏ, đến nuôi trên đồng ruộng (có hoặc không có mái che), hay nuôi trong những nhà nuôi kiên cố… Nhưng nhìn chung, các mô hình này đều phải đảm bảo được những yêu cầu kĩ thuật phù hợp với đặc điểm sinh lý của con Trùn quế.

1. Nuôi trong khay chậu:

Áp dụng cho những hộ gia đình không có đất sản xuất hoặc muốn tận dụng tối đa các diện tích trống có thể sử dụng được. Mô hình này có thể sử dụng các dụng cụ đơn giản và rẻ tiền như các thùng gỗ, thau chậu, thùng xô… Các thùng gỗ chỉ nên có kích cỡ vừa phải( vào khoảng 0,2 đến 0,4m2 với chiều cao khoảng 0,3 m ). 
Các dụng cụ này nên được đặt trên những cái khung nhiều tầng để dễ chăm sóc và tận dụng được không gian. Các dụng cụ nuôi nên được che mưa gió, đặt ở nơi có ánh sáng hạn chế càng tốt. Chúng phải được đục lỗ thoát nước, những lỗ này được chặn bằng bong gòn, luới… để không bị thất thoát con giống . Mô hình nuôi này có ưu điểm dễ thực hiện có thể sử dụng lao động phụ trong gia đình hoặc tận dung thời gian rảnh rỗi. Công tác chăm sóc cũng thuận tiện vì dễ quan sát và gọn nhẹ. Tuy nhiên, nó có nhược điểm là tốn nhiều thời gian hơn các mô hình khác, số lượng sản phẩm có giới hạn, việc chăm sóc cho Trùn quế phải được chú ý cẩn thận hơn .
Nuôi trùn trong khay

2. Nuôi trên đồng ruộng có mái che:

Thích hợp cho quy mô gia đình vừa phải và mở rộng, thích hợp cho những vườn cây ăn quả, cây công nghiệp lâu năm có bóng râm vừa phải. Các luống nuôi có thể là ô đào sâu trong đất hoặc làm bằng các vật liệu nhẹ như bạt không thấm nước, gỗ… có bề ngang từ 1 đến 2m, độ sâu ( hoặc cao) khoảng 30 đến 40 cm, bảo đảm thoát được nước và thông thoáng. Mái che nên ở dạng cơ động để dễ di chuyển, thay đổi trong những thời tiết khác nhau . Độ dày chất nền ban đầu và thức ăn nên được bổ xung hàng tuần. Luống nuôi cần được che phủ để giữ ẩm, kích thích hoạt động của Trùn quê và cần 1 diện tích tương đối lớn .

3. Nuôi trên đồng ruộng không có mái che:

Đây là phương pháp nuôi truyền thống ở các nước đã phát triển trong nghề nuôi Trùn quế như Mĩ, Úc… và có thể thực hiện được ở quy mô lớn . Luống nuôi có thể nổi hoặc âm vào mặt đất, bề ngang khoảng 1 đến 2m, chiều dài thường không giới hạn mà tuỳ theo diện tích nuôi. Với phương pháp này, người nuôi không phải làm lán trại, có thể sử dụng các trang thiết bị cơ giới để chăm sóc và thu hoạch sản phẩm. Nếu cho lượng thức ăn ban đầu và bổ sung hàng tuần thì việc thu hoạch cũng khá dễ dàng. Tuy nhiên, phuơng pháp nuôi này bị tác động mạnh bới các yếu  tố thời tiết, có thể gây tổn hại đến Trùn quế và cần một diện tích tương đối lớn.

4. Nuôi trong nhà với quy mô công nghiệp và bán công nghiệp:

Là dạng Cải tiến và mở rộng của luống nuôi có mái che trên đồng ruộng và nuôi trong thau chậu. Các khung (bồn) nuôi có thể được xây dựng kiên cố trên  mặt đất có kích thước rộng hơn hoặc được sắp thành nhiều tầng. Việc chăm sóc có thể thực hiện  bằng  tay hoặc các hệ thống tự động tuỳ theo quy mô. Phương pháp này có nhiều ưu điểm là chủ động được  điều  kiện  nuôi. Chăm sóc tốt, nuôi theo quy mô lớn nhưng chi phí xây dựng cơ bản và trang thiết bị cao. Hiện nay, quy mô nuôi công nghiệp với những trang thiết bị hiện đại được áp dụng khá phổ biến ở các nước phát triển như Mĩ, Úc, Canada.

II. YÊU CẦU VỚI NUÔI TRÙN QUẾ

Muốn nuôi Trùn trong hộ gia đình trước hết cần 2 điều kiện sau:
- Có nguồn phân động vật tại chỗ như phân trâu bò, phân dê thỏ, phân gà, lơn; Các nguồn rác phải hữu cơ như: rơm rạ, rau quả, bã trái cây đã ép lấy nước, xơ mít, vỏ dứa, xoài, thân cây chuối…Đây là nguồn rất dễ kiếm đối với những hộ nông dân, đặc biệt là những hộ kinh tế VAC.
- Phải có một chuồng nuôi thích hợp. Tất cả những dụng cụ đựng mà đảm bảo thoát nước, không úng ngập và chứa đựng được thì đều có thể là chuồng nuôi Trùn. Ví dụ như thùng phuy, can nhựa, khay, thùng, chậu, chuồng trại cũ bỏ không, lều lán…
Tuy nhiên trên thực tế việc nuôi Trùn tuỳ thuộc vào rất nhiều yếu tố . Để nuôi trùn quế thành công và đạt hiệu quả kinh tế cao, chúng ta cần tuân thủ những yêu cầu kĩ thuật sau:

1. Về người nuôi:

- Nắm được một số đặc điểm đặc tính sinh lý, sinh thái cơ bản của con Trùn.
- Có kiến thức tối thiểu về quy trình, công nghệ nuôi Trùn.
- Thực hành đúng các yêu cầu kĩ thuật và quy trình công nghệ nuôi Trùn.

2. Về chuồng trại nuôi:

Chuồng trại nuôi phải đạt nơi thoáng mát, không bị ngập úng và không nên bị ánh sáng mặt trời chiếu trực tiếp, có nguồn nước tưới thường xuyên, trung tính và sạch; cần thoát nhiệt, thoát nước tốt. Bảo đảm các điều kiện về nhiệt độ và độ ẩm. Nên có biện pháp ngăn ngừa các thiên địch (kiến, cóc, nhái…). Hố hoặc bể nuôi Trùn phải có mái che tránh mưa nắng. Ban đêm nên có đèn sáng, nhất là vào lúc mưa gió để tránh Trùn bò đi nơi khác.

3. Về chất nền:

Là yếu tố quan trọng cho Trùn trong thời gian đầu sinh sống, là nơi trú ẩn khi Trùn tiếp xúc với môi trường mới và phải đạt các yếu tố: tơi xốp, sạch, giàu dinh dưỡng… Chất nền có cơ cấu xốp, kết cấu tương đối thô, có khả năng giữ ẩm tốt, không gây phản ứng nhiệt, pH không nằm ngoài phổ chịu đựng của Trùn, có thể là môi trường sống tạm thời khi Trùn gặp điều kiện bất lợi.

4. Về nhiêt độ:

Nhiệt độ thích hợp nhất cho Trùn phát triển là từ 20oC đến  30oC . Đối với bà con ở một số khu vực phía bắc cần chú ý: Vào mùa đông nhiệt độ xuống thấp, lúc này chúng ta cần che chắn kĩ, tháp đèn điện vào ban đêm sao cho luôn giữ nhiệt độ ở mức thích hợp, tránh trường hợp Trùn bị ngủ đông hoặc chết cóng.

5. Về độ ẩm:

Phải thường xuyên tưới nước cho Trùn (vào mùa hè và mùa khô ít nhất là 2 lần/ ngày) . Có thể nhận biết độ ẩm thích hợp bằng 2 cách: lấy tay nắm phần sinh khối trong chuồng, sau đó thả ra, nếu thấy phân sinh khối còn giữ nguyên và tay ta chỉ ướt là đủ, nhưng nếu nước chảy ra hoặc phần sinh khối vỡ và rơi xuống như vậy là quá ướt hoặc quá khô. Nên chú ý tưới giữ ẩm ngay từ khi mới thả giống vì Trùn đã bị sốc khi di chuyển . Hằng ngày kiểm tra độ ẩm và tưới bổ sung, tốt nhất là tưới nhiều lần trong ngày khi trời nóng, lượng nước cho mỗi lần tuới ít. Nước tưới nên có pH trung tính, không bị nhiễm mặn hoặc phèn. Nếu sử dụng chất nền có kết cấu hạt xốp và to thì độ ẩm có thể duy trì ở mức cao hoặc ngược lại.

6. Về ánh sáng:

Trùn rất sợ ánh sáng nên ta chỉ phải che chắn chuồng thật kĩ vào ban ngày để trách tia tử ngoại lọt vào chuồng. Tốt nhất là có tầm phủ trên mặt luống nuôi . Tuy nhiên cần phải giữ cho chuồng thoáng  mát.

7. Về không khí:

Khí CO2, H2S, SO3, NH4 là kẻ thù của Trùn nên thức ăn cho Trùn phải sạch và không có các thành phần hoá học gây bất lợi cho Trùn.

8. Về thức ăn:

Mỗi ngày Trùn tiêu một lượng thức ăn tương đương với trọng lượng cơ thể chúng, nên chúng ta phải chắc rằng đủ lượng thức ăn cần thiết để nuôi Trùn. Thức ăn Trùn gồm: phân trâu, bò, dê, gà, heo, rơm rạ, rác hữu cơ… Trong đó phân trâu bò tươi là thức ăn khoái khẩu nhất của Trùn, còn lại phân gà, phân lợn, phân vịt, cần phải ủ cho hoai trước khi cho ăn. Thức ăn là chất thải hữu cơ nên có dạng đang phân huỷ, không nên có hàm lượng muối hoặc ammoniac quá cao; chủng loại tương đối đa dạng nhưng thích hợp nhất là những chất liệu có tỷ lệ C/ N vào khoảng 10 : 1 như phân gia súc, hấp dẫn Trùn hơn là các loại phân khô hoặc đã qua giai đoạn ủ.

Có thể chế biến thức ăn Trùn gồm rơm rạ, bã mía, mùn cưa… 50%; là xanh, rau các loạ, vỏ chuối…20% và phân gia súc, gia cầm 30%. Trong đó phân trâu bò là tốt nhất . Cứ 2kg Trùn giống (khoảng  5000 con) tiêu thụ mỗi ngày 1 đến 2 kg phân ủ, cứ 1000 con hằng tháng ăn hết 100kg phân ủ. Trộn đều các loại nguyên liệu theo tỷ lệ 70% nước, 30% phân rác…(cất nguyên liêu rơm rạ) đem ủ như ủ phân đống ngoài trát bùn chặt kín, nhiệt độ tăng cao cho đến 3-4 tuần lễ. Khi nhiệt độ hạ xuống bằng nhiệt độ môi trường thì cho Trùn ăn .

III. KỸ THUẬT NUÔI TRÙN QUẾ

1. Chuẩn bị khu nuôi Trùn

Tuỳ thuộc vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình cũng như quy mô chăn nuôi mà xây dựng chuồng nuôi Trùn theo các kiểu cách và kích thước khác nhau. Tuy vậy, chuồng nuôi Trùn cũng cần phải đảm bảo một số yếu tố: đông ấm, hè mát và phải lợp mái kín không để cho nước mưa hắt vào.
Ô nuôi được xây bằng gạch, cao 35-40cm, lát đáy với độ nghiêng 5% và có lỗ thoát nước dư với tiết diện 0,5-1,5cm. Xung quanh ô nuôi làm mương giữ nước để tránh kiến. Trên mặt ô nuôi có nắp đậy bằng khung lưới mắt cáo để tránh chuột bọ, cóc, nhái... vào phá hại Trùn. Ô nuôi thường được đặt ở nơi cao ráo và có mái che bằng lá dừa, tôn hoặc vật liệu khác.

2. Chuẩn bị thức ăn

Trùn có thể sử dụng đa dạng các loại chất hữu cơ như là nguồn dinh dưỡng chính, khi gặp những điều kiện bị cưỡng bức chúng có thể lấy chất dinh dưỡng từ đất để duy trì sự sống. Chất lượng và số lượng của các chất dinh dưỡng có sẵn không chỉ ảnh hưởng đến mật độ Trùn mà còn ảnh hưởng đến sự sinh trưởng và sinh sản của chúng (Edwards và Bohlen,1996). Trùn là loài ăn tạp, tuy nhiên không phải bất kì loại thức ăn nào cũng trở nên yêu thích đối với chúng. 
Thực tế, Trùn rất mẫn cảm với các nguồn phân động vật có hàm lượng nước tiểu cao, các loại cây thực vật có vị cay, đắng, chua, chát và có chất độc. Chính vì vậy, chúng ta không nên sử dụng những nguồn chất hữu cơ này làm thức ăn cho Trùn. Hiện tại, loại thức ăn mà Trùn ưa thích nhất và đem lại hiệu quả kinh tế cao nhất chính là các nguồn phân của các loài nhai lại như: phân trâu bò, phân ngựa, dê, cừu, thỏ… Do vậy, các hộ gia đình có nguồn phân này dồi dào có thể sử dụng làm thức ăn cho Trùn trực tiếp mà không cần ủ hoai. Ngược lại, những hộ gia đình không thể tự túc được các nguồn phân trên, có thể sử dụng một số loại chất hữu cơ khác: phân lợn, thân cây chuối, rơm rạ, rau bèo… đem trộn lẫn, ủ cho hoai rồi mới cho Trùn ăn.
Đối với các loại chất hữu cơ không thể sử dụng trực tiếp cho Trùn ăn, ta bắt buộc phải ủ và phương pháp ủ như sau:
Các loại vật liệu trước khi ủ đem trộn lẫn với nhau, chất thành đống (riêng đối với rơm rạ và thân cây chuối trước khi ủ băm thành từng đoạn 5-10cm cho nhanh mục, nếu rơm rạ đã gần mục rồi thì không cần băm cũng được). Khi đánh đống không nên nén nguyên liệu quá chặt để các loại vi khuẩn hiếu khí có thể phát triển nhanh chóng tạo điều kiện cho quá trình phân huỷ được nhanh hơn. Nếu hỗn hợp chất nền khô ta có thể vừa xếp vừa tưới (độ dày khoảng 20cm tưới 1 lần), lớp dưới tưới ít, lớp trên tưới nhiều hơn để có hàm lượng nước khoảng 50-60%. Cứ làm như vậy cho đến hết nguyên liệu ta sẽ được một đống ủ hình chóp cầu và cuối cùng chát bùn kín toàn bộ đống ủ. Dùng tấm nilon, bao dứa hay bạt phủ kín để tránh mưa gió.
Sau khi ủ khoảng 15 ngày, kiểm tra đống ủ, nếu hỗn hợp nguyên liệu ủ chưa đều ta có thể đảo cho đều, nếu nguyên liệu khô phải tưới nước, dùng cọc tre nhọn có tiết diện 5-10cm xuyên thủng đống ủ từ trên xuống dưới để làm chỗ tưới nước và thông hơi để loại bỏ khí độc. Kiểm tra đống ủ thường xuyên để tiêu diệt kiến và côn trùng có hại (nếu có) đồng thời tưới nước cho đống ủ khi bị khô.  
Thời gian ủ tốt từ 30-45 ngày hoặc lâu hơn tuỳ thuộc vào loại nguyên liệu đem ủ. Khi nhiệt độ hạ xuống, sờ tay vào đống ủ không thấy nóng tay, nguyên liệu đã hoai mục hoàn toàn và không có mùi hắc, mùi khó chịu là hoàn thành việc ủ thức ăn. Dùng cào, xẻng phá vỡ đống ủ, làm tơi và trộn đều (nên nhớ là cho ăn đến đâu thì mở rộng đống ủ đến đó chứ không nên phá tung đống ủ ngay từ lúc ban đầu, sau khi lấy thức ăn xong phải đậy lại để tránh mưa gió tác động trực tiếp vào nguyên liệu ủ). Trước khi cho ăn 1-2 ngày, lấy thức ăn để ở nơi thoáng mát, có mái che, để cho nguội, để hả khí độc nếu có, để xua đuổi kiến và côn trùng có hại, ta sẽ có chất nền thích hợp để nuôi Trùn.

3. Kỹ thuật chăm sóc - nuôi dưỡng

a. Các yếu tố cần lưu ý:
* Nhiệt độ: Hoạt động, sự chuyển hoá, sinh trưởng, hô hấp và sinh sản của Trùn chịu ảnh hưởng lớn bởi nhiệt độ. Bình thường Trùn đất sống trong phạm vi nhiệt độ từ 5-300C (Edwards, C.A. and Lofty, J.R.(1972)). Nhiệt độ thích hợp nhất cho sinh trưởng và sinh sản của Trùn từ 20-250C (Barley, KP.(1995)). Theo Lofs-Holmin (1995) Trùn quế sinh trưởng và sinh sản tốt nhất ở nhiệt độ từ 25-280C.
* Độ ẩm: Độ ẩm là nhân tố rất quan trọng cho sự phát triển của Trùn. Độ ẩm thích hợp nhất đối với Trùn quế từ 60-70% (Ewards, CA. (1983)). Chúng ta có thể kiểm tra độ ẩm trong ô nuôi bằng cách: dùng tay nắm một ít thức ăn lấy trong ô nuôi rồi bóp mạnh tay đến khi nào rỉ ra một vài giọt nước. Khi thấy khối chất nền trong ô nuôi khô, dùng ô doa để tưới nước cho khối chất nền. Nước tưới trên ô nuôi phải sạch, không lẫn chất độc, không có mùi hôi.
* Độ chiếu sáng: Tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời rất có hại cho Trùn và có khả năng giết chết Trùn. Trùn né tránh ánh sáng mặt trời, ánh sáng đèn chiếu mạnh, ánh sáng màu xanh và tia tử ngoại nhưng không sợ ánh sáng hồng (Ewards, CA. (2000)). Đây cũng là nguyên nhân làm cho Trùn sống nơi ẩm ướt và tối tăm nhưng lại có nhiều thức ăn hơn (Dương Thanh Liêm, Nguyễn Văn Bảy (1999)).
* Không khí: Ảnh hưởng đến sinh trưởng, sinh sản của Trùn chủ yếu là hàm lượng O2 và CO2 có trong không khí. Trùn có thể chịu đựng được với nồng độ CO2 từ 0,01-11,5%. Lưu ý đến các chất khí có hại như: Cl2, NH3, H2S, SO2, SO3, CH4. Willis (1995) và Edwards (1998) cho rằng Trùn quế không thể sống tốt trong chất thải hữu cơ chứa nhiều NH3.
* Độ pH: Là nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đến sự sinh trưởng và phát triển của Trùn. Trùn quế có thể sống và sinh sản tốt trong ngưỡng pH từ 7-8. Vì vậy, thức ăn cho Trùn cần được kiểm tra, xử lý sao cho đạt độ pH thích hợp. Có thể dùng quỳ tím để đo pH trong thức ăn của Trùn.
b. Chăm sóc - nuôi dưỡng
* Khối lượng chất nền ban đầu: Tuỳ theo diện tích ô nuôi và khối lượng Trùn ban đầu mà ta có thể đưa vào những lượng chất nền khác nhau. Độ dày chất nền ban đầu tốt nhất từ 10-15cm và chất nền phải đảm bảo các yếu tố sau:
- Tơi xốp, không dính, có dinh dưỡng và sạch
- Dùng phân bò hoặc phân của các loài nhai lại khác làm chất nền là tốt nhất
- Không dùng các loại lá cây có chứa dầu, có mùi thơm, có chứa chất đắng… để làm chất nền.
* Thả giống: Trùn được chọn làm giống phải khoẻ mạnh, phản xạ nhanh, không sử dụng những con yếu ớt, dị tật. Trùn giống được thả thành từng đám khắp bề mặt chất nền hoặc thả theo 1 đường thẳng chính giữa mặt chất nền. Tuỳ theo diện tích ô nuôi mà ta có thể đưa vào những khối lượng giống khác nhau sao cho phù hợp. Nếu diện tích ô nuôi lớn nhưng khối lượng giống đưa vào lại quá ít hoặc ngược lại diện tích ô nuôi nhỏ mà khối lượng giống đưa vào lại quá cao thì đều làm ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng, phát triển và tất nhiên là sẽ làm giảm khả năng tạo sinh khối của Trùn sau này. Hiện tại chúng tôi thấy khối lượng Trùn giống từ 1-2kg/1m2 ô nuôi là tương đối phù hợp.
* Che đậy ô nuôi:
Dùng tấm chiếu hoặc bao tải đay phủ lên bề mặt chất nền là tốt nhất. Nếu không có ta có thể sử dụng bao dứa tuy nhiên cần phải đục thành nhiều lỗ nhỏ đều nhau trên bề mặt bao để tạo sự thông thoáng và thấm nước tốt hơn. Tấm đậy phải sạch, không dính hoá chất độc và phải có khả năng giữ ẩm tốt. Vào mùa đông khi nhiệt độ thấp có thể phủ thêm lớp rơm lên trên bề mặt của tấm đậy để giữ ấm cho Trùn và hạn chế sự bốc hơi nước của khối chất nền.
* Cho ăn và chăm sóc:
- Phương pháp cho ăn
Đối với phân bò tươi và các loại phân ủ, trước khi cho ăn 1-2 ngày phải tãi ra để ở nơi khô ráo, thoáng mát, có mái che để loại bỏ khí độc và côn trùng có hại. Khi cho ăn ta dùng tay bóp nhỏ những tảng phân lớn, phân cục và rải đều khắp bề mặt ô nuôi. Độ dày lớp phân mới đưa vào tốt nhất là từ 10-15cm. Cho ăn xong nếu thấy lớp chất nền khô thì phải tưới thêm nước. Sau khi cho ăn khoảng 1 ngày, kiểm tra ô nuôi nếu thấy Trùn có tấn công lên lượng thức ăn mới là được. Ngược lại, nếu chúng không tấn công vào thức ăn mới và có hiện tượng bỏ chạy thì chứng tỏ thức ăn đã có vấn đề cần phải loại bỏ và thay thế bằng lượng thức ăn khác.
- Lượng thức ăn sử dụng tại mỗi lô
Người ta đã ước tính được rằng lượng thức ăn/ngày bằng chính khối lượng Trùn giống thả vào trong ô nuôi. Tuy nhiên tuỳ theo mùa vụ, loại thức ăn sử dụng… mà lượng thức ăn cung cấp cho Trùn sẽ khác nhau nên ta chỉ có thể ước tính khối lượng thức ăn đưa vào sao cho phù hợp. Tốt nhất ta ước tính để cứ 3-4 ngày lại cho Trùn ăn một lần, không nên cho Trùn ăn nhiều quá vì sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến sự thông thoáng của bề mặt ô nuôi và khả năng sinh sản của Trùn bởi vì tập tính hoạt động sinh sản của chúng thường diễn ra trên lớp bề mặt chất nền. Trùn ăn phân gia súc và đùn phân của nó lên trên mặt. Phân Trùn tơi như mùn cưa, màu đen. Cần phải kiểm tra định kỳ xem Trùn đã ăn hết thức ăn chưa. Khi ta lật tấm đậy lên thấy lớp phân trên bề mặt khối chất nền tơi xốp, nhỏ mịn kết hợp với dùng tay bới lớp phân bên dưới lớp bề mặt (sâu khoảng 5-10cm) nếu không tìm thấy dấu tích của thức ăn nữa chứng tỏ Trùn đã ăn hết. Khi thấy Trùn ăn hết phải bổ sung thức ăn cho Trùn ngay, không nên để quá lâu vì nó sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến khả năng sinh trưởng, phát triển và sinh sản của chúng.
* Tưới nước:
Do tập tính của Trùn thường sống trong môi trường ẩm thấp, hơn nữa nước chiếm tới 75-90% trọng lượng cơ thể Trùn do đó nước đóng vai trò rất quan trọng đến sự sinh trưởng, sinh sản và phát triển của chúng. Tùy theo mùa vụ và các loại thức ăn khác nhau mà ta có thể tưới vào chất nền những lượng nước sao cho phù hợp (vào mùa đông tưới ít nước hơn mùa hè, loại thức ăn có độ ẩm cao tưới ít nước hơn loại thức ăn có độ ẩm thấp…). Tuy nhiên, thông thường để cho dễ ta có thể kiểm tra bằng cách dùng tay bốc 1 nắm chất nền sau đó bóp cho rỉ ra vài giọt nước là được, tức là sao cho độ ẩm đạt khoảng 60-70%.
* Chống nóng, lạnh:
Do đặc điểm là một nước nhiệt đới nóng ẩm nên khí hậu Việt Nam mà đặc biệt là ở Miền Bắc có sự thay đổi rất thất thường trong năm. Điển hình là vào mùa đông trời rất giá rét nhưng vào mùa hè thì trời lại rất nóng bức, khó chịu. Trùn rất nhạy cảm với những thay đổi của điều kiện môi trường sống. Vì vậy chúng ta cần phải có biện pháp tác động để làm giảm sự ảnh hưởng của điều kiện thời tiết, khí hậu đến sự sinh trưởng và phát triển của chúng.
Vào mùa hè khi nhiệt độ lên quá cao (từ 300C trở lên), chúng ta có thể sử dụng các biện pháp sau:
- Nếu mái làm bằng brô xi măng ta có thể sử dụng nẹp rơm phủ lên trên mái hoặc bắc giàn trồng các loại cây leo như: mướp, bí, hoa thiên lý…để tạo bóng mát cho Trùn.
- Duy trì lượng nước có ở trong máng thường xuyên
- Tưới nước cho ô nuôi, ta không chỉ tưới nước vào bề mặt chất nền mà cần phải tưới nước lên cả thành tường của ô nuôi.
Vào mùa đông, khi nhiệt độ môi trường xuống thấp ta phải che chắn kín toàn bộ chuồng nuôi để tránh gió lùa. Hạn chế tưới nước vào chất nền nếu thấy không cần thiết, có thể dùng rơm khô phủ lên trên bề mặt của tấm đậy để sưởi ấm cho Trùn và làm giảm khả năng bốc hơi nước trong khối chất nền.
* Chống thiên địch:
Trùn là loại thức ăn được rất nhiều loại vật nuôi và côn trùng ưa thích. Vì thế chúng có rất nhiều kẻ thù. Cho nên trong thực tế chúng ta cần phải thường xuyên quan tâm, theo dõi để có biện pháp ngăn chặn và tiêu diệt các loại kẻ thù nguy hiểm này. Nếu làm tốt khâu này thì khả năng đem lại thành công trong nuôi Trùn là rất lớn. Qua thực tiễn chúng tôi thấy, loại kẻ thù nguy hiểm nhất và cũng khó phòng chống nhất chính là kiến. Các loại kẻ thù khác như: chuột, cóc, chim…cũng rất nguy hiểm nhưng ta có thể ngăn chặn một cách dễ dàng bằng cách làm khung lưới mắt cáo nhỏ đậy kín lên trên bề mặt của ô nuôi. Để phòng chống kiến đơn giản và hiệu quả, chúng ta có thể sử dụng phương pháp sau:
Khi xây dựng chuồng nuôi Trùn nhất thiết phải làm mương giữ nước bao quanh ô nuôi. Mương có thể làm chìm hay nổi nhưng phải thấp hơn nền của ô nuôi để có thể thấm nước ra bên ngoài khi mà lượng nước trong ô nuôi quá cao. Nòng của mương chỉ cần rộng khoảng 10cm, láng xi măng thật kỹ để đảm bảo sự giữ nước. Thường xuyên duy trì lượng nước có trong máng để ngăn chặn kiến xâm nhập từ bên ngoài vào. Trước khi cho Trùn ăn 1-2 ngày phải kiểm tra hố phân, rải đều lượng phân cần cho Trùn ăn ra để xua đuổi kiến và côn trùng có hại. Nếu làm tốt các khâu này thì khả năng kiến xâm nhập vào trong ô nuôi là rất thấp.
Trong trường hợp do có quá nhiều việc hay vì một lý do nào khác mà ta không thường xuyên thăm nom Trùn được dẫn đến hiện tượng kiến xâm nhập vào trong ô nuôi mà không biết. Đến khi mở ô nuôi ra thấy có rất nhiều kiến ở trong khối chất nền thì ta phải xúc lượng chất nền nơi có nhiều kiến ra bên ngoài để vào tấm bạt hoặc bao dứa. Sau 1 thời gian ngắn kiến sẽ chạy đi hết chỉ còn lại phần phân và Trùn thôi, ta tiếp tục lọc để lấy Trùn cho vào trong ô nuôi tiếp, phần phân còn lại tốt nhất nên bỏ đi vì nó vẫn còn lẫn rất nhiều trứng kiến ở trong đó. Nếu tiếp tục sử dụng lượng trứng này có thể nở sẽ gây ảnh hưởng không tốt đến Trùn. Tuyệt đối không được sử dụng thuốc diệt kiến, diệt muỗi hoặc các hoá chất khác phun trực tiếp vào phần chất nền có nhiều kiến vì nó có thể làm chết Trùn hoặc gây ảnh hưởng không tốt đến sự sinh trưởng và phát triển của chúng sau này. Chúng ta chỉ có thể phun lên vùng tường của ô nuôi nơi có kiến bò mà thôi.

4. Kỹ thuật thu hoạch

Thu hoạch là khâu cuối cùng của toàn bộ quá trình nuôi. Tuỳ theo mục đích sử dụng của từng hộ gia đình mà chúng ta có thể lựa chọn những phương pháp thu hoạch sao cho phù hợp và hiệu quả nhất. Hiện nay, một số tài liệu đã đưa ra rất nhiều phương pháp thu hoạch Trùn khác nhau như: thu hoạch bằng nhử mồi, bằng đe doạ, bằng ánh sáng, bằng điện… nhưng chúng tôi nhận thấy 2 phương pháp thu hoạch đơn giản và hiệu quả hiện nay đang được áp dụng nhiều nhất đó là:
- Phương pháp thu hoạch bằng ánh sáng
Đây là phương pháp thu hoạch hiện nay đang được áp dụng nhiều nhất. Ưu điểm của phương pháp thu hoạch này là đơn giản và có thể lấy được kiệt Trùn, tuy nhiên nó có nhược điểm là mất khá nhiều thời gian nếu lượng chất nền lớn và với điều kiện Trùn đã ăn hết phân trên lớp bề mặt chất nền. Trước khi thu hoạch 1 ngày ta phải kiểm tra xem Trùn đã ăn hết lượng phân trên bề mặt của chất nền chưa. Chúng ta chỉ khai thác khi Trùn đã ăn hết lượng phân này.

Ta có thể sử dụng 1 tấm bạt hoặc tấm ni lông có khổ rộng trải ra trên mặt đất. Lưu ý là nơi thu hoạch cần phải có nhiều ánh sáng nhưng tốt nhất không nên để trực tiếp dưới ánh sáng mặt trời vì tia tử ngoại của ánh sáng mặt trời rất có hại cho Trùn và có thể làm chết Trùn. Dùng tay mở tấm đậy ra, bới và bóp nhỏ lớp chất nền trong luống nuôi cho tơi xốp vì trong quá trình nuôi lượng phân Trùn đã đóng thành từng khối, từng tảng. Xúc phân Trùn và Trùn ở trong luống ra đổ thành đống trải đều giữa tấm bạt hoặc tấm ni lông (tốt nhất nên dùng các đồ vật bằng nhựa để xúc, không nên sử dụng các vật nhọn và sắc như: quốc, xẻng…vì nó có thể làm chết hoặc đứt Trùn). 
Do Trùn thường tập trung nhiều trên bề mặt của luống nuôi vì vậy để khai thác nhanh, chúng ta nên chia khối chất nền ra làm hai phần: phần chất nền ở phía trên đổ riêng về 1 phía, phần còn lại đổ sang phía đối diện. Sau khi xúc phân xong, dùng tay bóp nhỏ những phần phân đóng thành tảng xót lại và vun lên thành ngọn. Dưới tác động của ánh sáng, Trùn sợ sẽ chui xuống bên dưới. Ta dùng tay bới lớp phân Trùn ở trên ngọn và hai bên thành đống gạt sang hai bên. Trùn lại tiếp tục chui xuống dưới, ta lại tiếp tục bới như trên đã làm, cứ làm như vậy ta sẽ loại hết được phân Trùn ra và lấy được toàn bộ lượng Trùn ở dưới đáy.
- Phương pháp nhử mồi
Phương pháp này cũng được áp dụng khá nhiều trong thực tiễn, người ta thường sử dụng phương pháp này khi muốn san ô nuôi để làm giảm bớt mật độ Trùn và khối lượng chất nền hiện có ở trong luống. Tuy nhiên, nếu muốn lấy sạch Trùn trong ô nuôi thì không thể sử dụng phương pháp này mà phải dùng phương pháp thu hoạch bằng ánh sáng.
Khi quan sát thấy luống nuôi đã hết thức ăn, ta rải 1 lượt mỏng thức ăn mới lên trên bề mặt của khối chất nền. Trùn sẽ lập tức tập trung tấn công vào lượng thức ăn mới này. Theo dõi đến khi Trùn ăn gần hết lượng thức ăn này, mở tấm đậy và hớt lấy lớp phân trên bề mặt ta sẽ thu được rất nhiều Trùn.

5. Kỹ thuật vận chuyển

- Nguyên tắc chung là, khi vận chuyển không để Trùn quá chật, tránh gây xây xát và ánh sáng chiếu. Trùn chứa ở chỗ thông thoáng, chung với một lượng chất nền nhất định. Trung bình 2.000-3.000 con Trùn cần 1-2 dm3 chất nền.
- Tốt nhất là để Trùn trong các thùng gỗ, túi vải, cói, nilon thông thóang. Lượng Trùn và chất nền chỉ chiếm khoảng 1/3-1/2 không gian của thùng, phía trên có phủ lớp bèo hay lá ẩm ướt. Đề phòng Trùn không bò đi mất.
- Trước khi chuyên chở, cần cho Trùn ăn đủ no.

C. TRÙN QUẾ TRONG MÔ HÌNH CHĂN NUÔI KHÉP KÍN

I. MÔ HÌNH VAC CẢI TIẾN 

Vòng tuần hoàn nông nghiệp VAC
Vòng tuần hoàn nông nghiệp bao gồm 2 loại vòng tuần hoàn : vòng tuần hoàn đơn giản và vòng tuần hoàn phức tạp.
Vòng tuần hoàn đơn giản gồm có 3 yếu tố: Cây trồng - Chăn nuôi - Chất thải. Với thực tế hiện nay nếu áp dụng theo vòng tuần hoàn đơn giản thì năng suất mang lại thấp, mà rủi ro lại cao, không mang lại hiệu quả kinh tế cao, nông dân vẫn trong vòng luẩn quẩn của nghèo đói. Từ đó đã xuất hiện tư duy về vòng tuần hoàn phức tạp, bao gồm: Cây trồng - chăn nuôi - chất thải, và chất thải sử dụng để sản xuất khí bioga dùng trong sinh hoạt, dùng để nuôi Trùn.Từ đó thịt Trùn sử dụng cho chăn nuôi và dùng làm thực phẩm, phân Trùn thì sử dụng cho cây trồng. Đây là một vòng tuần hoàn phức tạp nhưng giá trị kinh tế cao.

* Một số nghiên cứu về việc sử dụng thịt Trùn làm thức ăn chăn nuôi
Nghiên cứu mới nhất về bổ sung Trùn quế vào khẩu phần ăn của gà của thầy Vũ Đình Tôn và thầy Hán Quang Hạnh được công bố trên tạp chí Khoa học và Phát triển của trường ĐH Nông nghiệp cho rằng: Bột Trùn quế là một tròng những loại thức ăn giàu dinh dưỡng rất phù hợp đối với gia cầm. Sử dụng bột Trùn quế nhằm bổ sung một phần thức ăn giàu protein trong khẩu phần ăn đã làm cải thiện đáng kể khả năng tăng khối lượng, hiệu quả chuyển hóa thức ăn, khả năng sản xuất thịt ( thịt đùi và thịt lườn) và độ vàng của thịt gà. 
Các chỉ tiêu khác về chất lượng của thịt ( độ pH, tỉ lệ mất nước do bảo quản, tỉ lệ hao hụt do chế biến, ánh sáng, độ đỏ) không bị thay đổi đáng kể. Tuy nhiên nếu nông dân phải mua Trùn tưởi hoặc bột Trùn sấy từ bân ngoài về để nuôi gà thì giá thành và chi phí thức ăn/ kg tăng khối lượng sẽ cao hơn và dẫn tới giản hiệu quả kinh tế. Vì vậy hộ nông dân nên tự nuôi được Trùn để giảm một lượng đáng kể giá thành 1kg thức ăn và chi phí thức ăn/ kg tăng khối lượng, từ đó mới có thể thu được lợi nhuận cao và phát triển mô hình nông nghiệp bền vững.
( Tạp chí khoa học và phát triển 2010: tập 8 số 6)

II. MỘT SỐ MÔ HÌNH ĐÃ ĐƯỢC THỰC HIỆN TƯƠNG ĐỐI THÀNH CÔNG

1. Mô hình Trùn quế + bò + gà + trồng bưởi

Địa điểm: ấp Trà Kháo, xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh
Người chịu trách nhiệm: Diêu Thi Hòa
Cách thức thực hiện:
   Năm 2003, anh Hòa được Hội Làm vườn tỉnh Trà Vinh đầu tư 12 kg Trùn quế. Trước hết anh đã thay đổi tập quán, đưa bò vào chuồng, không thả rong, sử dụng hết nguồn phân bò, các ô, hộc dùng để nuôi Trùn quế cũng được bảo vệ kỹ. Thời gian đầu nuôi trong 3 hộc bằng xi măng (S:1,5 m x 2 m), nguồn thức ăn cho Trùn quế chủ yếu được tận dụng từ nguồn phân bò của đàn bò 6 con mà gia đình nuôi. Và hiện nay anh đã phát triển lên 6 hộc nuôi Trùn quế, cứ bình quân hơn 1,5 tháng, anh thu họach một đợt trên 30 kg Trùn quế, với giá bán bình quân là 50.000 đồng/kg.
  Mô hình nuôi Trùn quế của anh Hòa được nhiều bà con quan tâm bởi tính hiệu quả về kinh tế, đồng thời hình thành phương pháp chăn nuôi sạch, an toàn, tận dụng các phụ phẩm từ trùn quế để làm phân bón cho trên 30 gốc bưởi (bưởi được bón có độ ngọt cao và làm cho đất tơi xốp hơn so với dùng phân hóa học) và trồng gần 500 m2 cây gừng, đồng thời còn sử dụng để chăn nuôi trên 50 con gà trong vườn nhà.
  Hiện nay, mô hình nuôi Trùn quế khép kín cùng nuôi bò và gà của anh Diêu Thi Hòa đang được xã Hòa Ân, huyện Cầu Kè, tỉnh Trà Vinh nhân rộng, theo hình thức mở rộng, tiến tới hình thành tổ hợp tác nuôi Trùn quế để tạo ra nguồn phân hữu cơ phục vụ cho việc phát triển nghề làm vườn nơi đây, vừa xây dựng mô hình chăn nuôi sạch và an toàn trong vùng, kể cả với việc nuôi bò và nuôi lợn.
Thu nhập:
 Chỉ trên 0,3 ha đất đã mang lại nguồn thu nhập mỗi năm lên đến gần 40 triệu đồng. Nếu tính hiệu quả khai thác trên diện tích đất bình quân, anh Hòa có thu nhập trên 100 triệu đồng/ha, từ mô hình chăn nuôi sạch, an toàn, hiệu quả cao.

2. Mô hình trồng ngô + bò + Trùn quế + lươn + gừng

Địa điểm: ở ấp Mỹ Thạnh, xã Mỹ An, huyện Chợ Mới (tỉnh An Giang)
Người chịu trách nhiệm: anh Đào Văn Bưu
Cách thức thực hiện: Đó là mô hình trồng ngô + bò + Trùn quế + lươn + gừng; anh trồng ngô thu trái non và bán cho Nhà mày chế biến xuất khẩu đồng thời lấy phụ phẩm vỏ, thân cây ngô nuôi bò. Anh còn tận dụng chất phế thải để nuôi Trùn quế làm thức ăn cho lươn, gà + trồng gừng. 
Anh Bưu sử dụng diện tích đất trên sản xuất 2 vụ lúa đến 3 vụ lúa/năm, nhưng cho thu nhập rất hạn chế. Từ khi có chủ trương của tỉnh, huyện chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng hiệu quả kinh tế cao, anh Bưu mạnh dạn chuyển 0,3 ha đất vườn tạp sang áp dụng mô hình đa canh khép kín. Với diện tích đất này, anh trồng 5 vụ bắp cho thu trái non/năm (thời gian trồng một vụ bắp thu trái non 49 ngày) với giá trị thu nhập gần 17 triệu đồng, sau trừ khi trừ chi phí có lãi gần 9,6 triệu đồng. Anh nuôi 8 con bò thịt, sau một năm bán được 72 triệu đồng, sau khi trừ chi phí, anh có lãi được 37 triệu đồng. Anh còn chăn nuôi một bồn lươn 24 m2 và thả 15 kg lươn giống; sau 6 tháng nuôi, anh thu được 40 kg lươn thịt loại 1 và 20 kg lươn thịt loại 2, như vậy bán được 3,1 triệu đồng, sau khi trừ chi phí còn thu lãi được 2.850.000 đồng. Anh còn trồng gừng lãi được 3.670.000 đồng/vụ (trong 7 tháng). 
Từ việc thực hiện mô hình đa canh trên diện tích đất hạn chế cho thu nhập khá, anh Bưu đã truyền kinh nghiệm của mình để giúp đỡ thêm 20 hộ nông dân nghèo trong xã ít đất (0,2ha đất/ hộ) thực hiện mô hình này có thu nhập giá trị từ 18 triệu đến 25 triệu/đồng/năm
Thu nhập: Mô hình đa canh khép kín của anh Đào Văn Bưu chỉ có 0,3 ha đã cho thu nhập 54 triệu đồng/năm.

3. Mô hình Trùn quế + gà sạch

Địa điểm: Xã Xuân Lũng – Huyện Lâm Thao – Tĩnh Phú Thọ
Người chịu trách nhiệm: Anh Nguyễn Hữu Lực 
Cách thức thực hiện:
Xuân Lũng- một xã của huyện Lâm Thao có điều kiện tự nhiên để phát triển nền nông nghiệp bền vững. Diện tích đất nông nghiệp chiếm trên 90%, thuận lợi cho phát triển chăn nuôi gia súc, gia cầm, vì vậy lượng phân gia súc, phế phụ phẩm nông nghiệp nhiều. Để tận dụng những nguồn rác thải nông nghiệp tại địa phương, với nhận thức bảo vệ môi trường sinh thái, phát triển kinh tế gia đình anh Nguyễn Hữu Lực đã ấp ủ xây dựng mô hình nuôi Trùn quế và gà sạch. Năm 2008 anh đã cùng vợ là Nguyễn Thị Dung đã bắt tay vào thực hiện mô hình, đến nay mô hình này đã được mở rộng và bước đầu đem lại hiệu quả kinh tế nhất định.Hiện tại, xã có 4 hộ nuôi Trùn quế, kết hợp gà sạch, nguồn giống do hộ anh Lực cung cấp.
Anh khẳng định nghề nuôi Trùn tận dụng được nguồn phân từ chăn nuôi, lại bảo vệ môi trường, trong khi đó chi phí lại thấp, chi phí Trùn giống khoảng 30.000 đ/1kg. Mô hình nuôi Trùn rất đơn giản, dễ làm, khó khăn không đáng kể, nếu người nông dân chịu khó làm thì hiệu quả sẽ rất cao, thu nhập khá cao. Nghề nuôi Trùn tận dụng được lao động nông nhàn, kết hợp hiệu quả với việc chăn nuôi gia cầm, trồng rau sạch, trồng cây cảnh trở thành một chu trình khép kín.
Anh chia sẻ: Nếu sử dụng phân Trùn trộn với các loại thức ăn khác như bột ngô, thóc cho gà ăn thì giảm được 1/3 lượng thức ăn.Về hệ thống chuồng trại cũng rất đơn giản, chỉ cần che đậy (vì Trùn sợ ánh sáng), nền có lỗ thoát nước, chuồng xây hơi nghiêng, Trùn được nuôi trong các luống được bao bằng gạch không cần xây. Để mật độ Trùn càng dày thì Trùn phát triển càng nhanh, cứ 1m2 diện tích để 10kg Trùn, sau 2 tháng số Trùn sẽ nhân lên gấp đôi 20kg. Chuồng nuôi cần giữ ẩm thường xuyên, và cho Trùn ăn thường xuyên (khi phân chuyển màu trắng hết) là Trùn có thể sinh trưởng phát triển bình thường.
Trung bình một tuần, lượng Trùn quế vườn anh Lực tiêu thụ hết hai tấn phân trâu bò. Một phần phân giúp duy trì sự sống và sinh sôi nảy nở của Trùn, một phần được chuyển hóa thành phân Trùn, một loại phân sạch, không thối ngược lại có mùi như cây quế chứa nhiều chất vi sinh rất dễ hấp thụ với cây trồng. Phân Trùn của nhà anh Lực đã được các hộ nông dân các xã lân cận mua về để chăn nuôi gia cầm và trồng cây.

4. Mô hình Trùn quế + gà đồi, vịt

Địa điểm: xã Quang Thịnh (huyện Lạng Giang, Bắc Giang)
Người chịu trách nhiệm: Nguyễn Văn Lý
Cách thức thực hiện:
   Nhờ người quen giới thiệu, ông Lý đã tìm đến Trung tâm tư vấn Chất lượng sản phẩm ở Hà Nội để học hỏi cách làm kinh tế trang trại. Tại đây, ông được giới thiệu về mô hình nuôi Trùn quế và được đi tham quam, học hỏi kinh nghiệm nuôi Trùn quế ở xã Võng La (huyện Đông Anh, Hà Nội)
  Năm 2007, ông đầu tư hơn 20 triệu đồng xây dựng chuồng trại và mua 20 cân Trùn giống về nuôi thử. Lúc đầu, Trùn chết nhiều do ông chưa nắm vững kỹ thuật nuôi. Một lần nữa, ông lên Trung tâm tư vấn Chất lượng sản phẩm để học hỏi kỹ thuật nuôi Trùn. Ông vừa làm, vừa rút kinh nghiệm kết hợp với việc đọc các sách báo để có thêm kiến thức. Nhờ vậy, kỹ thuật nuôi Trùn quế của ông ngày càng thành thục.
 Nói về lợi ích của con Trùn quế, ông Lý cho biết, thức ăn nuôi Trùn quế chủ yếu là phân lợn, phân gà vịt hoặc rơm rạ đã mục nát nên giá thành rẻ. Nuôi Trùn quế vừa tận dụng được những sản phẩm thừa trong sản xuất nông nghiệp, vừa góp phần bảo vệ môi trường. Hơn nữa, con Trùn quế mang lại giá trị kinh tế cao, mỗi kg Trùn quế có giá từ 150.000 – 200.000 đồng.
 Từ chỗ chỉ nuôi thử nghiệm 20kg Trùn quế trong diện tích 6m2, đến nay, ông Lý phát triển thành một khu chuồng trại có diện tích 600m2. Đây được xem là mô hình nuôi Trùn quế lớn nhất miền Bắc và ông được nhiều gọi là “vua Trùn quế”.
 Kết hợp nuôi Trùn quế, ông nuôi thêm gà đồi và vịt để tận dụng phân Trùn làm thức ăn cho gà vịt. Khi trộn phân Trùn với cám làm thức ăn cho gà vịt, ông giảm được 50 % chi phí mua cám tăng trọng.
 Khi thành công, ông tích cực giúp đỡ nhiều hộ dân trong xã về kỹ thuật, xây dựng chuồng trại để phát kinh tế từ con Trùn quế. Đến nay, mô hình nuôi Trùn quế của ông đã được nhân rộng ra nhiều huyện trong tỉnh.
 Mỗi năm ông đón hàng chục lượt khách  ở các tỉnh miền Bắc về thăm quan, học hỏi. Thậm chí, nhiều người ở Tây Nguyên, miền Nam cũng tìm đến ông để được tư vấn kỹ thuật nuôi Trùn quế.
 Thu nhập:
 Hàng năm, ông xuất ra thị trường hàng tạ Trùn, thu về hàng trăm triệu đồng. Năm 2009, ông bán hơn 5 tạ Trùn, với giá 200.000 đồng/kg, ông thu hơn 100 triệu đồng. Cộng thêm tiền bán gà vịt, trừ mọi chi phí ông thu lãi hơn 150 triệu đồng.



--- Kết Thúc ---
Chúc Bà Con Chăn Nuôi Đạt Hiệu Quả Cao

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét

TRỞ LÊN ĐẦU TRANG